ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TỤC BIÊN (1676 - 1789)
ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TỤC BIÊN
LỜI GIỚI THIỆU
Nói đến các bộ thông sử có tiếng của Việt Nam
dưới thời phong kiến, hẳn không ai có thể bỏ qua hai tác phẩm quan trọng: Đại
Việt sử ký toàn thư do Quốc sử quán triều Nguyễn dựa chủ yếu vào Đại Việt sử ký
toàn thư mà biên soạn lại vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Một trong hai bộ sử đó
tuy có được phiên dịch một vài phần từ trước Cách mạng tháng Tám([1])
nhưng phải đợi đến những năm 60-70, với công trình dịch thuật và chú giải
nghiêm túc của các dịch giả trong Tổ biên dịch Viện Sử học, cả hai bộ mới được
công bố một cách trọn vẹn([2]).
Tuy nhiên, sau khi đọc 4 tập Đại Việt sử ký
toàn thư
đã dịch và xuất bản rồi so sánh theo từng năm tháng với Khâm địch Việt sử thông
giám cương mục, các nhà sử học đều nảy sinh một mối phân vân: tại sao Đại Việt
sử ký toàn thư ghi chép lịch sử dân tộc từ họ Hồng Bàng trở đi (bao gồm các
phần Ngoại kỷ, Bản kỷ, Bản kỷ thực lục, Bản kỷ tục biên) lại chỉ chép đến năm
1675 đời Lê Gia Tông, tức hết quyển XIX, là kết thúc? Trong khi, Khâm định Việt
sử thông giám cương mục dựa trên bộ "sử mẹ" đó thì lại chép được đến
tận năm 1789 là năm cuối đời Lê Chiêu Thống, ông vua cuối cùng của triều Lê,
tức là dài hơn Đại Việt sử ký toàn thư đến 114 năm? Phải chăng cơ quan chép sử
của triều đình nhà Lê chỉ mới chính thức soạn xong lịch sử biên niên của triều
đại mình cho đến năm 1675 mà thôi, còn từ 1676 đến 1789 gồm 114 năm về sau thì
chưa soạn kịp? Và các sử gia triều Nguyễn sau này đã độc lập tìm kiếm những
nguồn tài liệu ngoài Đại Việt sử ký toàn thư để bổ sung và xây dựng sử liệu cho
114 năm nói trên trong cuốn Khâm định Việt sử thông giám cương mục?
[1] Đại Việt sử ký
toàn thư do Mạc Bảo thần dịch một phần, Nxb Tân Việt công bố.
[2] Khâm định Việt
sử thông giám cương mục do Tổ biên dịch Viện Sử học dịch, in thành 20 tập,
Nxb Văn Sử Địa và Nxb Sử học Hà Nôi, 1957-1960.
Đại Việt sử ký toàn thư do Cao Huy Giu dịch, Gs Đào Huy Anh hiệu đính chú
giải và khảo chứng, in thành 4 tập: Nxb Khoa học xã hội, Hà Nôi, 1967. Tái bản
1971-1973.


ĐẠI NAM THỰC LỤC TẬP 6
Phần “Tiền biên” này gồm 12 quyển, ghi các việc về 9 đời chúa Nguyễn: Khởi đầu từ Thái tổ Gia Dụ hoàng đế tức chúa Nguyễn Hoàng (Q.1), tiếp sau là các chúa: Hi Tông Hiếu Văn tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Q.2), Thần Tông Hiếu Chiêu tức Nguyễn Phúc Lan (Q.3), Thái Tông Hiếu Triết tức chúa Nguyễn Phúc Tần (Q.4-5), Anh Tông Hiếu Nghĩa tức Nguyễn Phúc Thái (Q.6), Hiển Tông Hiếu Minh tức Nguyễn Phúc Chu (Q.7-8), Túc Tông Hiếu Ninh tức Nguyễn Phúc Chú (Q.9), Thế Tông Hiếu Vũ tức chúa Nguyễn Phúc Khoát (Q.10), Duệ Tông Hiếu Định tức chúa Nguyễn Phúc Thuần (Q.11-12).

ĐẠI NAM THỰC LỤC TẬP 7
Đây là "Bộ sử biên niên ghi chép các việc thực về các đời vua chúa nhà Nguyễn”, biên soạn từ năm 1820 theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh khi thành lập Quốc sử quán. Đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) phần đầu của công trình mới biên soạn xong. Công cuộc trung hưng nhà Nguyễn tứ đó về sau do Thế Tổ nhà Nguyễn (tức vua Gia Long) đứng đầu sẽ là đối tượng ghi chép của phần “Chính biên”.

ĐẠI NAM THỰC LỤC TẬP 8
Đây là "Bộ sử biên niên ghi chép các việc thực về các đời vua chúa nhà Nguyễn”, biên soạn từ năm 1820 theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh khi thành lập Quốc sử quán. Đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) phần đầu của công trình mới biên soạn xong. Công cuộc trung hưng nhà Nguyễn tứ đó về sau do Thế Tổ nhà Nguyễn (tức vua Gia Long) đứng đầu sẽ là đối tượng ghi chép của phần “Chính biên”.

ĐẠI NAM THỰC LỤC TẬP 9
"Bộ sử biên niên ghi chép các việc thực về các đời vua chúa nhà Nguyễn”, biên soạn từ năm 1820 theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh khi thành lập Quốc sử quán. Đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) phần đầu của công trình mới biên soạn xong. Công cuộc trung hưng nhà Nguyễn tứ đó về sau do Thế Tổ nhà Nguyễn (tức vua Gia Long) đứng đầu sẽ là đối tượng ghi chép của phần “Chính biên”.

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TỤC BIÊN (1676 - 1789)
Đại Việt sử ký tục biên: sách của Thư viện KHXH, ký hiệu A.1210, gồm hai tập: a - 124 tờ; b - 149 tờ. Cả hai tập ghi chép lịch sử từ 1676-1789.

đại việt sử ký tiền biên
Bản gốc tại Di văn hán Nôm

đại việt sử ký toàn thư
Bản gốc tại Di văn hán Nôm

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ
Đại Việt sử ký toàn thư, đôi khi gọi tắt là Toàn thư, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê.