ĐẠI NAM THỰC LỤC TẬP 5
ĐẠI NAM THỰC LỤC
Đây
là "Bộ sử biên niên ghi chép các việc thực về các đời vua chúa nhà Nguyễn”,
biên soạn từ năm 1820 theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh khi thành lập Quốc sử quán.
Đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) phần đầu của công trình mới biên soạn xong. Các
Chánh phó Tổng tài là Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cẩn và các quan chức sử quán
dâng biểu xin vua duyệt định cho khắc in. Lúc trước Minh Mệnh mới cho tên đại
thể là Liệt thánh thực lục, nay sách soạn xong chính thức lấy tên là Đại Nam
thực lục , chia làm 2 phần Tiền biên và Chính biên. Phần “Tiền biên”
này gồm 12 quyển, ghi các việc về 9 đời chúa Nguyễn: Khởi đầu từ Thái tổ Gia Dụ
hoàng đế tức chúa Nguyễn Hoàng (Q.1), tiếp sau là các chúa: Hi Tông Hiếu Văn
tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Q.2), Thần Tông Hiếu Chiêu tức Nguyễn Phúc Lan
(Q.3), Thái Tông Hiếu Triết tức chúa Nguyễn Phúc Tần (Q.4-5), Anh Tông Hiếu
Nghĩa tức Nguyễn Phúc Thái (Q.6), Hiển Tông Hiếu Minh tức Nguyễn Phúc Chu
(Q.7-8), Túc Tông Hiếu Ninh tức Nguyễn Phúc Chú (Q.9), Thế Tông Hiếu Vũ tức
chúa Nguyễn Phúc Khoát (Q.10), Duệ Tông Hiếu Định tức chúa Nguyễn Phúc Thuần
(Q.11-12). Các sự việc ghi chép rất tóm tắt, bao quát hơn hai thế kỉ từ khi
Nguyễn Hoàng vào làm trấn thủ Thuận Hoá năm 1558 đến khi Nguyễn Phúc Thuần chết
(1777). Công cuộc trung hưng nhà Nguyễn tứ đó về sau do Thế Tổ nhà Nguyễn (tức
vua Gia Long) đứng đầu sẽ là đối tượng ghi chép của phần “Chính biên”.


ĐẠI NAM THỰC LỤC TẬP 6
Phần “Tiền biên” này gồm 12 quyển, ghi các việc về 9 đời chúa Nguyễn: Khởi đầu từ Thái tổ Gia Dụ hoàng đế tức chúa Nguyễn Hoàng (Q.1), tiếp sau là các chúa: Hi Tông Hiếu Văn tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên (Q.2), Thần Tông Hiếu Chiêu tức Nguyễn Phúc Lan (Q.3), Thái Tông Hiếu Triết tức chúa Nguyễn Phúc Tần (Q.4-5), Anh Tông Hiếu Nghĩa tức Nguyễn Phúc Thái (Q.6), Hiển Tông Hiếu Minh tức Nguyễn Phúc Chu (Q.7-8), Túc Tông Hiếu Ninh tức Nguyễn Phúc Chú (Q.9), Thế Tông Hiếu Vũ tức chúa Nguyễn Phúc Khoát (Q.10), Duệ Tông Hiếu Định tức chúa Nguyễn Phúc Thuần (Q.11-12).

ĐẠI NAM THỰC LỤC TẬP 7
Đây là "Bộ sử biên niên ghi chép các việc thực về các đời vua chúa nhà Nguyễn”, biên soạn từ năm 1820 theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh khi thành lập Quốc sử quán. Đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) phần đầu của công trình mới biên soạn xong. Công cuộc trung hưng nhà Nguyễn tứ đó về sau do Thế Tổ nhà Nguyễn (tức vua Gia Long) đứng đầu sẽ là đối tượng ghi chép của phần “Chính biên”.

ĐẠI NAM THỰC LỤC TẬP 8
Đây là "Bộ sử biên niên ghi chép các việc thực về các đời vua chúa nhà Nguyễn”, biên soạn từ năm 1820 theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh khi thành lập Quốc sử quán. Đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) phần đầu của công trình mới biên soạn xong. Công cuộc trung hưng nhà Nguyễn tứ đó về sau do Thế Tổ nhà Nguyễn (tức vua Gia Long) đứng đầu sẽ là đối tượng ghi chép của phần “Chính biên”.

ĐẠI NAM THỰC LỤC TẬP 9
"Bộ sử biên niên ghi chép các việc thực về các đời vua chúa nhà Nguyễn”, biên soạn từ năm 1820 theo chỉ dụ của vua Minh Mệnh khi thành lập Quốc sử quán. Đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) phần đầu của công trình mới biên soạn xong. Công cuộc trung hưng nhà Nguyễn tứ đó về sau do Thế Tổ nhà Nguyễn (tức vua Gia Long) đứng đầu sẽ là đối tượng ghi chép của phần “Chính biên”.

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TỤC BIÊN (1676 - 1789)
Đại Việt sử ký tục biên: sách của Thư viện KHXH, ký hiệu A.1210, gồm hai tập: a - 124 tờ; b - 149 tờ. Cả hai tập ghi chép lịch sử từ 1676-1789.

đại việt sử ký tiền biên
Bản gốc tại Di văn hán Nôm

đại việt sử ký toàn thư
Bản gốc tại Di văn hán Nôm

ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ
Đại Việt sử ký toàn thư, đôi khi gọi tắt là Toàn thư, là bộ quốc sử viết bằng Hán văn của Việt Nam, viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời đại truyền thuyết Kinh Dương Vương năm 2879 TCN đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê.